Công Báo Quảng Ngãi
Thứ hai, ngày 23 tháng 12 năm 2024

"Văn bản đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như bản gốc. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa Công báo in và Công báo điện tử thì sử dụng Công báo in làm căn cứ chính thức." (trích Nghị định số 34/2016/NĐ-CP)

8,490,705 lượt truy cập

Download Acrobat Reader

Tương thích với các trình duyệt Firefox, Google Chrome, Internet Explorer. Cần cài đặt Adobe Acrobat Reader để hiển thị nội dung văn bản. Hiển thị tốt nhất với độ phân giải màn hình 1024x768.

  Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xác định sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước ta, trong đó có việc soạn thảo một bản Hiến pháp dân chủ, làm nền tảng pháp lý cho việc xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước để lãnh đạo nhân dân chống "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân kiểu mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, mặc dù gặp vô vàn khó khăn, có lúc tưởng chừng "vận nước treo trên đầu sợi tóc", cùng một lúc phải tập trung sức lực chống lại ba thứ giặc, nhưng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến việc xây dựng và củng cố bộ máy quản lý hành chính nhà nước, đặc biệt trong đó có việc thành lập một tờ báo là tiếng nói, là sự phát ngôn chính thức cho mọi quyết định điều hành đất nước của một nhà nước có chủ quyền còn hết sức non trẻ - tờ Công báo của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


      Tờ Công báo nước Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với bề dày lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trước khi đi vào lịch sử phát triển của Công báo cách mạng Việt Nam, để thấy được phần nào hoạt động của cơ quan Công báo dưới các chế độ chính trị do bọn thực dân, đế quốc dựng lên, cần điểm qua một số đặc điểm của Công báo chính quyền Sài Gòn trước ngày đất nước thống nhất (1975):

 

       1. Thời kỳ Việt Nam dân quốc Công báo (1945 - 1950):

 

       Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bộ Nội vụ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Nghị định " về việc bãi bỏ các sở thuộc phủ toàn quyền Đông Dương và sáp nhập các sở đó vào các Bộ trong Việt Nam – Nhân dân – Chính phủ". Sau đó một ngày, ngày 31 tháng 8 năm 1945, Bộ Nội vụ đã ban hành Nghị định về việc xuất bản tờ Công báo mới của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên, lấy tên là Việt Nam dân quốc Công báo.

 

       Nghị định nêu rõ: " Kể từ ngày mồng 01 tháng 9 năm 1945, Việt Nam - Nhân dân - Chính phủ sẽ xuất bản tại Hà Nội một tờ Việt Nam dân quốc Công báo thay cho tờ Đông Dương quan báo.

 

       Bộ Nội vụ sẽ trông nom việc ấn loát và phát hành báo đó cho các công sở ở khắp Bắc-bộ, Trung-bộ và Nam-bộ.

 

       Tờ Việt Nam dân quốc Công báo sẽ phải đăng những đạo luật, sắc lệnh, hoặc sắc- lệnh-luật do Việt-Nam Nhân dân Chính phủ ban bố cùng các Nghị định do các ông Bộ trưởng, hoặc các ông Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Trung bộ và Nam bộ ký, mà có tính cách cần công bố cho dân biết".

 

       Theo quy định tại Nghị định này, Công báo có nhiệm vụ quan trọng là đăng tải toàn bộ các văn bản pháp luật. Kể từ đó Công báo đã trở thành công cụ chính thức của Nhà nước dùng để công bố các văn bản quy phạm pháp luật trong toàn quốc. Sự kiện này cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá rất cao vai trò của Công báo trong một chế độ dân chủ nhân dân. Sự ra đời của Việt Nam dân quốc Công báo có ý nghĩa lịch sử rất lớn, đây được coi là tờ báo chính thức của Chính phủ Việt Nam, chấm dứt sự hiện diện cuối cùng tờ Công báo của chủ nghĩa thực dân, góp phần tích cực vào việc xây dựng nền móng ban đầu cho một nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

 

Sau gần một tháng chuẩn bị, ngày 29 tháng 9 năm 1945, Việt Nam dân quốc Công báo ra số đầu tiên đăng Bản tuyên cáo thoái vị của Vua Bảo Đại và Bản tuyên cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 về việc thành lập Chính phủ Lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, đánh dấu sự ra đời của Nhà nước Việt Nam độc lập.

 

       Ngay trong số đầu tiên, Công báo đã đăng các sắc lệnh, nghị định về tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức quân đội, các vấn đề về giáo dục, y tế cũng như việc trưng thu các công sở của chính quyền cũ, quy chế tuyển chọn, thi cử trong chế độ mới.

 

      Công tác tổ chức, quản lý và hoạt động của Việt Nam dân quốc Công báo cũng đã được xác lập ngay trong Sắc lệnh số 41 ngày 03 tháng 01 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Sắc lệnh này " bãi bỏ tất cả các công sở và các cơ quan trước thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương…" nhưng sử dụng lại bộ máy công chức của chế độ cũ phục vụ Chính phủ Lâm thời Việt Nam, trong đó có việc chuyển " Ban Công báo của Phòng Công văn" về Bộ Nội vụ.

 

      Theo Sắc lệnh này, “Ban Công báo của Phòng Công văn” là một đơn vị hành chính có vị trí xứng đáng trong hệ thống hành chính nhà nước ngay sau khi có chính quyền Cách mạng. Thời gian từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1949 Công báo được xuất bản đều đặn, thường xuyên đăng tải các Sắc lệnh, Nghị định, Thông tư, Quyết định của Chính phủ, các Bộ, liên Bộ, Ủy ban nhân dân Bắc bộ, Ủy ban hành chính Hà Nội. Năm 1945, Việt Nam dân quốc Công báo đã xuất bản được 16 kỳ; năm 1946 xuất bản lên tới 47 kỳ.

 

      Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Cơ quan Việt Nam dân quốc Công báo cũng được chuyển lên Việt Bắc và chuyển hoạt động xuất bản từ mỗi tuần một kỳ sang mỗi tháng 1 kỳ. Trong cả 3 năm 1947, 1948, 1949 mỗi năm xuất bản 12 kỳ Công báo.

 

      Trong thời gian này, Việt Nam dân quốc Công báo không nhất thiết đăng toàn văn các Nghị định do các cơ quan có thẩm quyền ban hành mà đăng khá nhiều văn bản trích lục nghị định, chỉ đăng những điểm thiết yếu nhất trong nghị định cần công bố rộng rãi để nhân dân biết, thực hiện. Công báo trong thời gian này đăng nhiều Sắc lệnh và Nghị định về tổ chức bộ máy nhà nước, về các chế độ bổ nhiệm, tuyển cử, thuyên chuyển, hưu bổng, đãi ngộ công chức nhà nước, về việc khen thưởng, kỷ luật, địa giới hành chính nhà nước... Việt Nam dân quốc Công báo còn đăng cả bố cáo thành lập công ty, cáo thị về nhận tài sản, thông báo về kỳ thi... mà hiện nay Công báo không đăng. Ngoài ý nghĩa là công cụ tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ và nhân dân hiểu, tuân theo các quy định của Nhà nước, Việt Nam dân quốc Công báo nói riêng và các tờ Công báo của những năm sau nói chung còn có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Thông qua các văn bản quy phạm và hành chính trên Công báo, các thế hệ của Việt Nam sau này và người nước ngoài đều có thể hiểu, hình dung sự ra đời, phát triển và ngày càng hoàn thiện của nhà nước độc lập đầu tiên cũng như các sự kiện lớn của đất nước.

 

      Đối tượng phát hành của tờ Việt Nam dân quốc Công báo là các cơ quan, công sở và nhân dân trong toàn quốc. Ngay từ những số đầu tiên, Việt Nam dân quốc Công báo đã chiếm được tình cảm mến mộ của độc giả, góp phần vào việc điều hành bộ máy nhà nước ở Trung ương và địa phương, nó đã trở thành kênh thông tin chính thức của Nhà nước ta trong việc công bố các văn bản pháp luật để nhân dân biết.

 

       2. Thời kỳ Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950-1975):

 

      Tại cuộc họp từ ngày 08 tháng 7 năm 1950 đến ngày 10 tháng 7 năm 1950, Hội đồng Chính phủ đã quyết nghị việc đổi tên tờ Công báo. Ngày 10 tháng 7 năm 1950, tại chiến khu Việt Bắc, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký Nghị định số 31/TTg đổi tên Tờ “Việt Nam dân quốc Công báo” thành “Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” và giao cho Thủ tướng Chính phủ phụ trách việc xuất bản và phát hành.

 

      Trong những năm kháng chiến chống Pháp, mặc dù gặp nhiều khó khăn, gian khổ, song Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa không ngừng vươn lên, đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Công báo được chuyển tới tận tay các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, đến các cơ quan, đoàn thể và các cán bộ, chiến sỹ trong cả nước. Công báo đăng những sắc lệnh, nghị định, quyết định, chỉ thị và nhiều văn bản quan trọng khác của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Chính phủ, góp phần hướng dẫn, động viên quân và dân ta thực hiện chủ trương, đường lối kháng chiến, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đi tới thành công.

 

      Trong điều kiện cả nước tiến hành kháng chiến, Chính phủ sơ tán qua nhiều nơi, nhiều địa điểm bí mật, khó tránh khỏi việc thất tán văn bản, tài liệu gốc, trong đó có cả các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, việc duy trì hoạt động của Công báo không những đảm bảo kênh thông tin pháp luật từ Chính phủ và các cơ quan Trung ương tới địa phương không bị gián đoạn mà Công báo còn có vai trò rất quan trọng trong việc lưu giữ các tài liệu, văn bản pháp luật quốc gia, trong đó có nhiều tài liệu đã bị thất tán bản gốc trong chiến tranh. Nhờ có Công báo, người ta có thể tìm lại được một số các văn bản gốc đã bị thất tán lâu nay, giúp cho các thế hệ sau này có cơ sở tra cứu, tìm hiểu về lịch sử cách mạng của dân tộc và lịch sử hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật mà Công báo đã đăng tải.

 

      Hoạt động của Công báo nước ta thời kỳ này đã cho chúng ta thấy: mặc dù Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung sức chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước nhưng rất quan tâm tới các hoạt động nhằm xây dựng một nhà nước dân chủ kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân, đặt nền móng vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam. Vì thế có thể nói, Công báo là một tài liệu rất có giá trị về lịch sử, giúp việc nghiên cứu sự ra đời, phát triển và ngày càng trưởng thành của Nhà nước Việt Nam từ năm 1945 đến nay.

 

      Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, các quan hệ xã hội nước ta đã thay đổi căn bản so với thời kỳ trước. Nhiệm vụ cách mạng của dân tộc ta lúc này là tập trung thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công báo Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kỳ này đã đạt được nhiều kết quả, đảm bảo nội dung văn bản đăng trên Công báo theo Nghị định thành lập Công báo quy định, không ngừng nâng cao hiệu quả phục vụ công cuộc hồi phục kinh tế sau chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

      Tuy nhiên, Công báo nước ta xuất bản trong thời kỳ này còn một số hạn chế nhất định như tính hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, số lượng xuất bản còn hạn chế, công tác phát hành có nhiều khó khăn, hình thức và cách trình bày chưa thật phù hợp... Những khó khăn, hạn chế và cả khuyết điểm, thiếu sót trong thời kỳ này của Công báo, ngoài nguyên nhân chủ quan còn có mặt khách quan do hoàn cảnh của đất nước lúc đó phải tập trung sức cho kháng chiến, chưa có điều kiện để phát triển kinh tế xã hội và xây dựng cơ chế điều hành của nhà nước pháp quyền kiểu mới, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của Công báo.

 

      Để có một chế độ đăng và sử dụng Công báo thống nhất, ngày 24 tháng 4 năm 1959, Thứ trưởng Phủ Thủ tướng Phạm Văn Bạch đã ký Thông tư số 1771-PC về việc đăng Công báo và sử dụng Công báo. Thông tư nêu rõ các nội dung cần đăng trên Công báo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cung cấp thông tin, văn bản cho Công báo. Thông tư hướng dẫn chế độ đăng Công báo và sử dụng Công báo được áp dụng thống nhất trên toàn quốc nhằm bảo đảm tính kịp thời, đầy đủ và chính xác các văn bản đã ban hành. Thông tư nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với việc gửi văn bản đăng Công báo, yêu cầu: " Các Bộ cần đặt chế độ kiểm soát để tất cả các văn bản cần được đăng Công báo đều được gửi đăng kịp thời, không để sót văn bản nào" và các văn bản này phải gửi để đăng Công báo ngay sau khi được ký, phát hành do cán bộ có đủ thẩm quyền như Chánh, Phó Văn phòng Bộ ký chịu trách nhiệm về sự cần đăng và tính chính xác của văn bản.

 

      Phủ Thủ tướng cũng đã quy định việc sử dụng Công báo: " Các cơ quan được cấp Công báo có nhiệm vụ phổ biến Công báo trong nhân viên và cán bộ. Công báo được luân chuyển ở các phòng hoặc để ở phòng đọc sách hay thư viện cơ quan để mọi người có thể xem và tra cứu khi cần thiết"; yêu cầu các cơ quan nhà nước phải giữ Công báo đủ số, không để rách nát và mỗi năm cần đóng lại thành từng tập có bìa cứng để giữ được lâu. " Công báo được coi như tài sản quốc gia" và mọi người có trách nhiệm phải bảo vệ, giữ gìn.

 

      Phải nói rằng, kể từ khi Công báo của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tháng 9 năm 1945 đến tháng 4 năm 1959 chúng ta mới có một văn bản đầu tiên truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ " về việc đăng Công báo và sử dụng Công báo một cách chi tiết, hệ thống và rõ ràng. Với Thông tư này, công tác xuất bản và phát hành Công báo Việt Nam dân chủ cộng hòa đã có bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển.

 

      Năm 1965, đất nước ta bước vào thời kỳ mới, nhân dân miền Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh nhằm thống nhất Tổ quốc, nhân dân miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn trách nhiệm hậu phương lớn, chi viện cho chiến trường miền Nam và tiến hành chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ đặt ra cho Nhà nước và nhân dân ta thời kỳ này hết sức nặng nề. Bộ máy hoạt động của Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn không ngừng được hoàn thiện, củng cố. Công tác Công báo tiếp tục được coi trọng và có bước cải tiến đáng kể.

 

      Song, Công báo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục, nhiều văn bản theo quy định phải đăng Công báo còn bị thiếu, văn bản đăng chậm, một số bản sao gửi đăng Công báo không đúng bản chính, Công báo chỉ được sử dụng chủ yếu trong nội bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước, chưa được phổ biến rộng rãi cho cán bộ công nhân viên cơ quan và công khai cho nhân dân. Việc bảo quản và sử dụng Công báo trong các cơ quan hành chính nhà nước chưa thật tốt, có nơi để thất lạc, thiếu các bản lưu, gây khó khăn trong tra cứu và sử dụng.

 

      Để khắc phục những thiếu sót, bất hợp lý trên, ngày 30 tháng 4 năm 1965, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ban hành Thông tư số 44-TTg-PC về cải tiến Tờ Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong đó Thông tư đã quy định xuất bản thêm Phụ lục Công báo và Công báo xuất bản cho cấp xã.

 

       Phụ lục Công báo (lưu hành trong các cơ quan nhà nước): bên cạnh những mặt Công báo đã làm tốt như lượng phát hành ngày một tăng, nội dung ngày một phong phú, đóng góp tích cực vào việc giúp các cơ quan xí nghiệp và đội ngũ cán bộ, công chức nắm vững chủ trương chính sách, chế độ và thể lệ của Nhà nước, làm tốt nhiệm vụ được giao, Phủ Thủ tướng chỉ rõ Công báo còn bộc lộ một số mặt chưa hợp lý, nhất là chưa xử lý tốt việc đăng tải nội dung sao cho thật thích hợp để phục vụ hai loại đối tượng khác nhau trong thời kỳ có chiến tranh. Công báo đăng những tài liệu cần phổ biến rộng rãi trong nhân dân lẫn lộn với những tài liệu chỉ cần phổ biến trong các cơ quan nhà nước, vì vậy Phủ Thủ tướng quy định bắt đầu từ năm 1965 sẽ phát hành riêng 2 loại:

 

      - Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: tiếp tục phát hành, công khai, rộng rãi trong nhân dân nhằm mục đích công bố những chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ của Nhà nước có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của đông đảo cán bộ công nhân viên chức, nhân dân và những tài liệu chính thức về sự hoạt động của Nhà nước cần công bố cho dân biết.

 

       - Phụ lục Công báo: chỉ lưu hành trong nội bộ cơ quan nhà nước. Phụ lục Công báo là một tài liệu bổ sung cho Công báo, có mục đích giúp cơ quan nhà nước thuận tiện trong việc tra cứu, tìm hiểu một cách hệ thống những chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ của Đảng và Nhà nước về những vấn đề tổ chức và chỉ đạo công tác của cơ quan, xí nghiệp mà không cần hoặc không thể phổ biến rộng rãi cho cán bộ và nhân dân. Đó là những quy định về tổ chức và chế độ làm việc của nội bộ cơ quan xí nghiệp, những quy phạm và tiêu chuẩn Nhà nước; những tài liệu quan trọng có tính chất chỉ đạo công tác như: Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng; những Báo cáo và Quyết định quan trọng có tính chất nguyên tắc được Chính phủ phê chuẩn xét thấy cần và có thể phổ biến cho các ngành, các cấp biết.

 

      Đối tượng phát hành Phụ lục Công báo ở Trung ương bao gồm các Văn phòng Bộ, các Cục, Vụ, Viện và tương đương có nhiệm vụ nghiên cứu đường lối chính sách, các cơ quan Trung ương của Đảng và các đoàn thể; ở Khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm Ủy ban hành chính và các Sở, ty chuyên môn, Tòa án, Viện kiểm sát, các cơ quan lãnh đạo của Đảng và các đoàn thể (mặt trận, công đoàn, thanh niên, phụ nữ); ở huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố là Ủy ban hành chính.

 

      Phụ lục Công báo được coi như công văn của cơ quan nhà nước và được lưu giữ, bảo quản theo chế độ công văn giấy tờ, chỉ có những cán bộ có trách nhiệm nghiên cứu mới được sử dụng và có trách nhiệm bảo quản, tuyệt đối không được để thất lạc hoặc hư hỏng.

 

      Phụ lục Công báo xuất bản 25 năm liên tục từ năm 1965 đến hết năm 1989. Việc xuất bản Phụ lục Công báo đánh dấu một bước cải tiến của Công báo nước ta, đáp ứng yêu cầu phục vụ các đối tượng độc giả khác nhau của Công báo trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta trong việc củng cố bộ máy chính quyền nhân dân.

 

       Công báo xuất bản cho cấp xã (1972-1990):

 

      Dưới chế độ ta, pháp luật của Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và ý nguyện của nhân dân, là công cụ của Nhà nước để quản lý các mặt của đời sống xã hội, duy trì kỷ luật và trật tự, thực hành chuyên chính với kẻ thù, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nắm vững pháp luật để thực hiện nghĩa vụ và sử dụng đúng đắn quyền làm chủ của mình là yêu cầu rất quan trọng đối với mọi công dân, đặc biệt đối với cán bộ đảng viên ở cấp xã. Thông tư số 44-TTg-PC ngày 30 tháng 4 năm 1965 quy định tờ Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được cung cấp đến Ủy ban hành chính xã để phổ biến rộng rãi các chính sách, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ và nhân dân ở xã. Nhưng để cho nội dung tờ Công báo phát cho cấp xã phù hợp với cán bộ và nhân dân ở xã, sau khi tham khảo ý kiến của các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố và một số Ủy ban hành chính huyện, xã, ngày 03 tháng 7 năm 1972, Thủ tướng Chính phủ ký Thông tư số 191-TTg về việc xuất bản tờ Công báo cho cấp xã.

 

      Thông tư quy định: Công báo xã phát hành 3 tháng 01 kỳ và cung cấp đến tận xã để phổ biến rộng rãi các chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ và nhân dân ở xã " Nhất là những luật lệ có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong sản xuất, chiến đấu, công tác và đời sống", đến tận cán bộ và nhân dân cấp xã - cấp cơ sở trong bộ máy hành chính Nhà nước. Thông tư quy định: tờ Công báo cho cấp xã là tài liệu chính thức của Nhà nước, nên việc sử dụng, bảo quản phải như giấy tờ, công văn, tài sản của Nhà nước, không được để thất lạc; khi nhận được Công báo xã, Ủy ban hành chính phải phổ biến rộng rãi cho cán bộ và mọi người dân trong xã biết; Ban thông tin phải thông báo cho nhân dân biết những văn bản đăng trong Công báo xã để người dân có thể đọc ở nhà văn hóa xã được dễ dàng. Để tuyên truyền pháp luật đến nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Thông tư còn quy định ở những xã vùng núi cao mà Ủy ban hành chính tỉnh xét thấy chưa nên gửi Công báo xã về thì cũng phải phản ánh cho Phủ Thủ tướng biết, mặt khác Ủy ban hành chính huyện ở những nơi đó có trách nhiệm phổ biến bằng tiếng địa phương những quy định đăng trong Công báo xã để cho cán bộ và nhân dân các xã nói trên nắm được luật lệ của Nhà nước.

 

       Bắt đầu từ tháng 9 năm 1972, Công báo dành riêng cho cấp xã được xuất bản và tồn tại đến hết năm 1992. Ngay từ những số đầu tiên, Công báo xã đã tập trung vào những nội dung thiết thực, phù hợp với sự chỉ đạo, điều hành của Đảng, Chính phủ trong tình hình đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, các vấn đề về tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước ở cấp xã. Công báo xã đăng các văn bản mới ban hành, nhưng khi cần thiết cũng có thể đăng các văn bản đã ban hành trước đây do chưa được phổ biến rộng rãi.

 

      Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, Công báo xã tập trung công bố các văn bản thuộc nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau cần triển khai thực hiện trong toàn quốc, nhất là ở cấp cơ sở. Tính từ khi ra số đầu tiên theo tinh thần của Thông tư số 191-TTg ngày 03 tháng 7 năm 1972 của Thủ tướng Chính phủ về việc xuất bản Công báo xã, đến hết năm 1992, Công báo xã đã xuất bản được 84 số, mỗi năm 4 số, với hàng vạn bản in, đưa được hầu hết các văn bản quan trọng của Nhà nước đến với cán bộ và nhân dân các xã trong toàn quốc, góp phần giáo dục pháp luật và thực thi pháp luật ở cơ sở.

 

      Việc đưa pháp luật về xã để cán bộ nhân dân hiểu biết và nắm vững pháp luật là hết sức cần thiết, góp phần tích cực vào việc phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân cấp xã - đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng rất quan trọng của bộ máy hành chính nhà nước.

 

      Trong 21 năm tồn tại, Công báo xã đã thật sự là công cụ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các đối tượng ở xã, hoàn thành tốt sứ mạng lịch sử mà Đảng và Nhà nước đã trao. Công báo xã đã thật sự chiếm được lòng tin yêu của các độc giả và là người bạn không những thân thiết mà còn rất cần thiết của các cán bộ xã.

 

       3. Thời kỳ Công báo của chính quyền Sài Gòn trước năm 1975:

 

       Trước năm 1975, có thể nói Công báo của chính quyền Sài Gòn có hai thời kỳ hoạt động khác nhau, một là thời kỳ dưới chính quyền tay sai của thực dân Pháp và hai là thời kỳ dưới chính quyền tay sai đế quốc Mỹ. Theo các tài liệu còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội và Thư viện Quân đội, tờ Công báo Việt Nam của Chính phủ Bảo Đại tay sai Pháp, do Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng, số đầu tiên xuất bản là ngày 19 tháng 7 năm 1848, số cuối cùng ra ngày 25 tháng 10 năm 1955, có phụ bản bằng tiếng Pháp, chuyên đăng các văn bản gọi là “quốc luật, chỉ dụ, sắc lệnh, nghị định, yết thị, tin tức và bố cáo”. Sau năm 1954, dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu …, tờ Công báo mang tên “Công báo Việt Nam Cộng hòa”, là một bộ phận của Ty Quản trị, do Nha Tổng Thư ký Phủ Thủ tướng phụ trách, số đầu tiên ra ngày 26 tháng 10 năm 1955 và số cuối cùng ra ngày 08 tháng 3 năm 1975, không có phụ bản bằng tiếng nước ngoài, một năm ra 52 số, có năm đặc biệt ra 59 số, có số cuối năm dành riêng đăng mục lục các văn bản đã đăng trên Công báo trong năm.

 

       Công báo của chính quyền Sài gòn có hai ấn phẩm chính, một là Ấn phẩm thường xuyên ra vào thứ Bảy hàng tuần và hai là Ấn phẩm Quốc hội. Trong Ấn phẩm thường xuyên đôi khi lại có ấn phẩm thêm và ấn phẩm đặc biệt. Ấn phẩm Quốc hội cũng được chia hai loại, là Ấn phẩm Thượng nghị viện, ra vào thứ Năm hàng tuần và Ấn phẩm Hạ nghị viện ra vào ngày thứ Sáu hàng tuần, tập trung vào công việc làm luật của Quốc hội.

 

       Công báo của chính quyền Sài Gòn không những đăng các văn bản của Chính phủ mà còn đăng cả các quyết nghị của Tòa Thượng thẩm Sài Gòn và cả các thông cáo thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, thông cáo và yết thị việc bán đấu giá tài sản. Trên tất cả các ấn phẩm đều đăng các loại văn bản pháp luật, các công văn điều hành của Chính quyền Sài Gòn, kể cả các văn bản bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, cho về hưu … đối với công chức.

 

       Ngoài tờ Công báo của Chính phủ, chính quyền Sài Gòn còn cho phát hành tờ Công nghiệp sở hữu Công báo thuộc Tổng nha Khoáng chất và Công nghệ, Bộ Kinh tế Quốc dân, chuyên đăng các sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hóa được Nhà nước bảo hộ.

 

       Các tờ Công báo nói trên, dù dưới hình thức xuất bản nào (thuộc cơ quan hành pháp hay luật pháp) đều là các ấn phẩm thông tin và đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các chế độ tay sai thực dân, đế quốc trực tiếp quản lý, có giá bán và được phổ biến khá rộng rãi. Nội dung đăng tải trên các tờ Công báo nói trên khá rộng, kể cả bố cáo hoặc yết thị về một việc chỉ liên quan đến một số đối tượng nhất định trong xã hội, nhưng các văn bản đã đăng đều có tính áp dụng chung.

 

       4. Thời kỳ Công báo nước Cộng hòa XHCNVN từ 1976 đến nay:

 

       a) Công báo từ 1976 đến 1985 (thời kỳ trước đổi mới):

 

      Năm 1975, năm đầu tiên thống nhất đất nước, Công báo đăng 91 văn bản pháp quy trong tổng số 638 văn bản do Hội đồng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành, đạt tỷ lệ 14,3%. Trong số 234 văn bản của Hội đồng Chính phủ, đã đăng Công báo 40 văn bản - chiếm 17,1%; trong số 404 văn bản của Thủ tướng Chính phủ, đã đăng Công báo 51 văn bản - chiếm 12,6%.

 

      Năm 1976 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 01 tháng 7 năm 1976, Văn phòng Phủ Thủ tướng ra Thông báo về việc kết thúc việc xuất bản Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và được thay thế bằng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Số đầu tiên của Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xuất bản vào ngày 31 tháng 7 năm 1976. Số lượng văn bản đăng ở Công báo không nhiều, sở dĩ như vậy là vì nhiều văn bản đã được đăng trên tờ Phụ lục Công báo (chủ yếu dành cho các cơ quan nhà nước). Hơn nữa, một nguyên nhân rất quan trọng là trong thời kỳ này có nhiều văn bản có tính chất pháp quy do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành được đóng dấu mật, không được phổ biến rộng rãi nên không thể đăng Công báo. Có thể nêu một vài số liệu như sau:

 

      Năm 1976, tỷ lệ đăng các văn bản do Chính phủ và Thủ tướng ban hành đạt 12,8%. Trong đó 45/250 văn bản của Hội đồng Chính phủ được đăng trên Công báo, chiếm 18%; 51/500 văn bản của Thủ tướng Chính phủ được đăng trên Công báo, chiếm 10,2%.

 

      Các năm sau, tỷ lệ đăng văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo vẫn rất thấp. Năm 1977 đạt 14,4%; năm 1978 là 13,83%; năm 1979 là 18,64%; năm 1980 là 16,2%; năm 1981 là 29,6%; năm 1982 là 24,6%; năm 1983 là 19,74 %; năm 1984 là 17,5%; năm 1985 là 22,2%.

 

      Nếu lấy năm 1981 là năm có tỷ lệ văn bản pháp quy của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đăng trên Công báo nhiều nhất thì vẫn còn tới 70,4% số văn bản chưa được đăng trên Công báo. Tính chung trong 10 năm 1976 đến năm 1985, Công báo đăng tải được 1.259 trong tổng số 7.488 văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành, chiếm 16,81%.

 

       b) Công báo từ năm 1986 đến 2002 (thời kỳ tiến hành công cuộc đổi mới đất nước):

 

      Vào đầu những năm 1980, do hậu quả nặng nề của chiến tranh liên tiếp, lại thêm một số sai lầm, khuyết điểm do chủ quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã làm cho nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt là sự thiếu chặt chẽ về các quy định pháp luật của Nhà nước trong quản lý kinh tế, nhất là đối với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đã tạo kẽ hở cho tệ nạn tham nhũng. Không ít văn bản quy phạm pháp luật ban hành trước năm 1986 không còn phù hợp, bộc lộ nhiều nhược điểm, gây trở ngại cho hoạt động của các cơ quan đơn vị, phiền hà cho nhân dân và không phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

      Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 02 năm 1986 đã rút ra những bài học cần thiết, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tạo ra bước ngoặt mới trong công cuộc xây dựng, đổi mới kinh tế đất nước.

 

      Năm 1992, Quốc hội ban hành Hiến pháp mới thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng. Hệ thống thể chế hành chính, pháp luật của Nhà nước được xây dựng và sửa đổi, điều chỉnh phù hợp với Hiến pháp 1992 theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền hành chính nhà nước dân chủ, phục vụ có hiệu quả các nhu cầu của nhân dân và các tổ chức. Việc soạn thảo và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công cuộc xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được đặc biệt ưu tiên. Nhà nước tập trung cao độ cho việc xây dựng thể chế hành chính, liên tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời tiến hành rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng cụ thể hóa, đơn giản hóa, cung cấp cho bộ máy hành chính những sản phẩm công cụ quản lý hành chính có hiệu lực, hiệu quả, theo đúng pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

 

      Cho đến thời gian này, nhiều quy định đối với hoạt động của Công báo trước đây đã có song chưa được thực hiện tốt, một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới, đòi hỏi phải sớm được sửa đổi, thay thế. Những nhược điểm trong hoạt động của Công báo theo cơ chế cũ là nguyên nhân trực tiếp khiến cho Công báo chưa làm tốt vai trò của mình, chưa tạo thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp và nhân dân được nhanh chóng tiếp cận với các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đăng trên Công báo. Tỷ lệ các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành chưa được đăng Công báo trong giai đoạn 1975-1985 lên tới trên 83% chứng tỏ với cơ chế hoạt động cũ, Công báo không thể đáp ứng kịp nhu cầu đòi hỏi về thông tin liên quan đến văn bản pháp luật cũng như yêu cầu ngày càng cao của sự đổi mới nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiều lần có ý kiến chỉ đạo việc nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ của Công báo, mở rộng việc xuất bản và phát hành Công báo trong cả nước và cho các đối tượng nước ngoài quan tâm tìm hiểu về pháp luật Việt Nam.

 

      Yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội và thực tiễn quản lý nhà nước đòi hỏi từng bước phải đổi mới hoạt động của Công báo. Ngày 28 tháng 12 năm 1992, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 200/TTg về việc xuất bản và phát hành Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyết định quy định Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiệm vụ đăng các văn kiện của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong cả nước; Thủ tướng Chính phủ tiếp tục giao cho Văn phòng Chính phủ chịu trách nhiệm xuất bản Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thực hiện triệt để tinh thần của Quyết định trên, ngày 28 tháng 12 năm 1992, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Lê Xuân Trinh đã ký Thông tư số 145/BT hướng dẫn Quyết định số 200/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xuất bản và phát hành Công báo. Thông tư này quy định một số nội dung cụ thể về hoạt động Công báo như sau: để từng bước kiện toàn và hoàn thiện tờ Công báo, làm cho tờ Công báo thật sự là công cụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giúp các cơ quan, đoàn thể, tổ chức kinh tế xã hội biết, nắm vững, chấp hành và giám sát việc thi hành pháp luật. Đây là những cơ sở pháp lý vững chắc cho việc kiện toàn và đổi mới hoạt động của Công báo theo hướng đổi mới toàn diện về hiệu lực và hiệu quả của Công báo, từng bước đưa Công báo giữ vị trí quan trọng trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách toàn diện của Việt Nam.

 

      Công báo là một trong những kênh thông tin pháp lý chính thức tới công chúng do Văn phòng Chính phủ trực tiếp quản lý. Công báo đăng tải toàn văn các văn bản pháp luật, văn bản đăng trên Công báo có giá trị như bản gốc và được sử dụng chính thức trong các giao dịch. Về phát hành, Công báo được công bố và phát hành rộng rãi phục vụ các cơ quan nhà nước, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân; tạo điều kiện cho việc hiểu biết, chấp hành và giám sát việc thi hành pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ của nhà nước. Công báo cũng được phát hành rộng rãi cho các cá nhân, cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế, tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam có nhu cầu tìm hiểu và sử dụng. Công báo do Văn phòng Chính phủ xuất bản, việc phát hành Công báo do cơ quan Phát hành báo chí Trung ương đảm nhận. Thông tư còn hướng dẫn cụ thể các nội dung về việc gửi đăng Công báo, bảo quản và sử dụng Công báo để mọi người biết và thực hiện.

 

      Ngày 12 tháng 11 năm 1996, Quốc hội thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tại Điều 10 của Luật này đã quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương phải được đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Chính phủ thống nhất quản lý Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ngày 23 tháng 9 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 101/CP quy định chi tiết một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 5 của Nghị định quy định văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương phải đăng Công báo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành; thời hạn phải gửi văn bản quy phạm pháp luật đến Văn phòng Chính phủ để kịp thời đăng Công báo chậm nhất là 2 ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành; Công báo được công bố công khai, phát hành rộng rãi trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và trong nhân dân, kể cả cá nhân, tổ chức, cơ quan nước ngoài; văn bản đăng Công báo có giá trị như bản gốc.

 

      Nếu lấy riêng văn bản của Chính phủ và Thủ tướng năm 2000 để so sánh, ta có thể thấy sự tiến bộ vượt bậc của việc đăng tải văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo: 18/19 Nghị quyết (trừ 1 văn bản mật) và 79/79 Nghị định của Chính phủ được đăng Công báo - đạt tỷ lệ 100%; 114/154 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được đăng Công báo - đạt 74%; 24/29 Chỉ thị Thủ tướng Chính phủ được đăng Công báo - đạt 82,7%. Những văn bản chưa đăng trên Công báo chủ yếu là văn bản mật và các Quyết định cá biệt không phải đăng Công báo theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

 

      Nét nổi bật của Công báo trong giai đoạn này là cố gắng khắc phục những yếu kém còn tồn tại, không ngừng vươn lên trong công tác biên tập, xuất bản và phát hành, bảo đảm cung cấp nhanh hơn, đầy đủ hơn các văn bản quy phạm pháp luật cho mọi đối tượng có nhu cầu. Tuy tỷ lệ văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ ban hành đăng trên Công báo chưa phải là cao, nhiều Bộ chỉ mới đạt 50% nhưng đây là cố gắng rất lớn của Công báo so với trước. Công báo luôn nỗ lực hoàn thành tốt vai trò sứ mạng lịch sử của mình, giúp cho các cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế - xã hội ở Trung ương, các cơ quan chính quyền các cấp ở địa phương và mọi công dân trong việc tìm hiểu nắm vững và chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật, chế độ, thể lệ của nhà nước, góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh, hiệu quả và hiệu lực.

 

      So với thời kỳ mới thành lập Công báo ngày càng được cải tiến về hình thức. Trang bìa của Công báo được in 2 màu, có in hình Quốc huy, được trình bày trang nghiêm và đẹp hơn trước.

 

      Số lượng Công báo từng bước được nâng lên rõ rệt, số lượng kỳ xuất bản và số lượng xuất bản từng kỳ của Công báo trong thời kỳ đổi mới đã tăng dần hàng năm, đặc biệt trong những năm gần đây. Nếu từ tháng 9 năm 1945 đến hết năm 1997, Công báo xuất bản mỗi tháng 2 kỳ thì từ năm 1998 tăng lên mỗi tháng 3 kỳ và từ năm 1999 tăng lên mỗi tháng 4 kỳ. Số lượng in từng số cũng tăng dần. Nếu số lượng phát hành năm 1998 là 28.000 bản mỗi kỳ; năm 1999 là 40.000 bản thì từ năm 2000 trở đi số lượng lên tới 41.400 bản mỗi kỳ. Nếu khi mới thành lập số trang tăng từ 15 đến 20 trang sau tăng lên 24 trang thì đến nay số trang tăng gấp vài lần. Với số lượng bản in tăng lên rõ rệt như vậy đồng nghĩa với việc đối tượng và địa bàn phát hành cũng ngày càng mở rộng hơn. Theo Quyết định số 69/1998/QĐ-TTg ngày 03 tháng 3 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát hành Công báo cho xã, phường, thị trấn, từ ngày 01 tháng 5 năm 1998 Công báo đã dành mỗi số 10.500 bản để cấp phát không thu tiền cho các đối tượng trên.

 

       c) Công báo từ sau năm 2002:

 

      Thực hiện đường lối đổi mới trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, nước ta đang từng bước tiến hành hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như: thành viên Hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức kinh tế các nước Châu Á Thái Bình Dương (APEC), thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Vì thế, xu hướng phát triển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta không thể không tính đến những yêu cầu, đòi hỏi chung phù hợp thông lệ quốc tế, chuẩn mực quốc tế và phải được điều chỉnh cho phù hợp, tương thích với các văn bản, các quy định của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia.

 

      Ngày 10 tháng 12 năm 2001 Hiệp định Thương mại song phương Việt Mỹ (BTA) có hiệu lực. Hiệp định có biên độ rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực từ hàng hóa, dịch vụ đến đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, tính minh bạch của pháp luật cho đến quyền khiếu kiện, các phương thức giải quyết tranh chấp... Chương VI của BTA quy định bổ sung các yêu cầu về tính minh bạch của các "luật, quy định và các thủ tục hành chính" bao gồm các nội dung chính như sau: tất cả các luật, quy định và thủ tục hành chính đều phải được công bố trên một tạp chí chính thức xuất bản định kỳ và mang tính phổ biến cho công chúng; các luật, quy định và thủ tục hành chính không được công bố sẽ không được thực thi; phải công bố thường xuyên và nhanh chóng; phải công bố trước ngày có hiệu lực...

 

      Để đáp ứng yêu cầu khách quan, ngày 16 tháng 12 năm 2002 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội CNVN Khóa XI, kỳ họp thứ hai thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và có hiệu lực từ ngày 27 tháng 12 năm 2002.

 

      Việc sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đã nâng cao vị trí, vai trò của Công báo. Theo quy định của Luật này, kể từ ngày 27 tháng 12 năm 2002, hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Đáp ứng được yêu cầu này của pháp luật đòi hỏi phải có sự đổi mới, tăng cường và hoàn thiện công tác xuất bản, phát hành Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

© Bản quyền thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

® Ghi rõ nguồn "Công báo tỉnh Quảng Ngãi" khi sử dụng lại thông tin từ website này.

CÔNG BÁO TỈNH QUẢNG NGÃI

Địa chỉ: Số 52 Hùng Vương - thành phố Quảng Ngãi.

Điện thoại: (055) 3712 134 - (055) 3712 135 - Fax: (055) 3822 217 - Email: congbao@quangngai.gov.vn